Tên thường gọi: Chim cánh cụt Humboldt
Tên khoa học: Spheniscus humboldti
Lớp:Chim
Phân bố:Ven biển Peru và Chile
Kích thước:Chiều cao khoảng 38 cm
Khối lượng khoảng 4,4 kg
Tuổi thọ:Cánh cụt Humboldt trong điều kiện nuôi nhốt có thể sống được khoảng 15 đến 20 năm.
Tuổi thọ của loài trong tự nhiên chưa xác định được nhưng thường ít hơn trong điều kiện nuôi nhốt do chúng thường gặp stress.
Trạng thái bảo tồn:Sắp nguy cấp

Thông tin mô tả

Chim cánh cụt Humboldt là một loài chim cánh cụt cỡ trung bình có kích thước tương tự như chim cánh cụt Magellanic. Chúng có trọng lượng từ 4 đến 5 kg và có chiều cao trung bình từ 66 đến 70 cm. Cánh cụt đực có kích thước lớn hơn cánh cụt cái. Chúng có đầu đen giáp với bộ lông trắng trải dài từ mắt xung quanh tai và cằm, kéo dài xuống tận phần cổ. Chúng có phần lưng màu xám đen và phần ngực trắng. Đặc điểm nổi bật của chúng là một dải hình móng ngựa màu đen trên ngực, kéo dài xuống hai bên sườn. Những con chim cánh cụt vị thành niên có đầu đen và không có vú.

Phân bố

Loài chim cánh cụt Humboldt xuất hiện ở bờ biển Thái Bình Dương của Nam Mỹ từ Isla Foca của Peru đến Isla Guafo ở Chile. Chúng dành phần lớn thời gian ở vùng ven biển.
Các địa điểm sinh sản ưa thích của chúng là những hòn đảo đá có trữ lượng guano lớn.
Phạm vi sinh sống của chúng kéo dài khoảng 35 km.

Dân số

Loài chim cánh cụt Humboldt đã trải qua những biến động lớn về số lượng do hiện tượng El Nino – hiện tượng nước biển nóng lên làm cho số lượng con mồi giảm đáng kể. Trong thời gian gần đây, hiện tượng La Nina – hiện tượng nước biển lạnh đi làm cho nguồn thức ăn trở nên phong phú hơn, giúp đảm bảo sự sống của cánh cụt.
Dân số của chúng được ước tính là 32.000 cá thể trưởng thành theo IUCN.
Trong lịch sử, số lượng chim cánh cụt Humboldt bắt đầu suy giảm vào giữa những năm 1800 bởi môi trường sống của chúng bị thu hẹp.

Tập tính

Chim cánh cụt Humboldt là loài động vật có tính xã hội rất cao và thường sống thành các tập đoàn lớn. Tuy nhiên, chúng lại tìm kiếm thức ăn một mình. Những chim cánh cụt không có con non thường đi kiếm ăn ở những nơi xa, còn những chim cánh cụt đang nuôi con nhỏ thì kiếm nguồn thức ăn ở khu vực lân cận.
Chim cánh cụt phát ra tiếng nói để giao tiếp với nhau. Vừa để liên hệ, khoe khoang và đe dọa. Chúng cũng có khả năng nhận biết mùi hương đặc biệt của con non và bạn tình.
Chim cánh cụt Humboldt phải trải qua hai tuần lột xác và không được ăn gì vì không thể xuống nước.
Chúng rất nhạy cảm với sự hiện diện của con người, các điểm sinh sản của chúng đã bị giảm đi khi các điểm du lịch được dựng lên.

Sinh sản

Chim cánh cụt Humboldt sinh sản quanh năm với đỉnh sinh sản vào tháng Tư – tháng Sáu và tháng Tám – tháng Mười Hai.
Chim cánh cụt Humboldt chỉ có một vợ một chồng và có thể nhận ra người bạn đời của họ bằng những dấu hiệu và mùi hương riêng biệt.
Chúng xây tổ trên những hòn đảo đá dọc theo bờ biển nơi mà có lượng guano phong phú. Chim đào hang và đặt trứng vào bên trong.
Con cái thường đẻ hai quả trứng mỗi lần và thường chỉ có một con non sẽ sống sót.
Chim cánh cụt đực và cái thường chia sẻ trách nhiệm trong việc bảo vệ tổ trong vòng 6 tuần cho đến khi con non ra đời. Khi chim non ra đời, cả hai bố mẹ cũng thay phiên nhau chăm sóc chim non. Chim non có thể sống độc lập sau lần lột xác đầu tiên vào khoảng một năm sau sinh.

Chế độ ăn

Nguồn thức ăn chủ yếu của cánh cụt Humboldt là cá cơm Peru, cá trích Araucanian, cá tuyết, cá sòng Inca và cá nhái.

Bạn có biết không?

Chim cánh cụt Humboldt được đặt tên theo dòng Humboldt, một dòng nước lạnh giàu chất dinh dưỡng chảy dọc theo bờ biển Nam Mỹ từ phía bắc Peru đến phía nam của Chile.

Album Ảnh

[smartslider3 slider=202]

Leave a comment