Tên thường gọi: Megapnosaurus (Syntarsus)
Môi trường sống: Khu rừng ở châu Phi và Bắc Mỹ
Kích thước: Chiều cao khoảng 80 cm
Trọng lượng: khoảng 34 kg
Thời kỳ lịch sử:Kỷ Jura sớm (khoảng 200 đến 180 triệu năm trước)
Chế độ ăn:Động vật ăn thịt
Đặc điểm phân biệt:Kích thước lớn, đứng bằng hai chân, mõm hẹp, bàn tay khỏe với những ngón tay dài.

Thông tin cơ bản về loài khủng long Megapnosaurus 
Megapnosaurus ban đầu được đặt tên là Syntarsus bởi Raath vào năm 1969. Sau đó được đổi tên thành Megapnosaurus bởi Michael Ivie, Adam Slipinski và Piotr Wegrzynowics bởi Syntarsus đã được đặt tên cho loài bọ cánh cứng colydiine vào năm 1869. Mặc dù điều này gây tranh cãi vì lí do: thông thường người đặt tên ban đầu cho một chi khủng long có cơ hội sửa lỗi nhưng Ivie, Slipinski và Wegrzynowics lại tự cho mình thực hiện nhiệm vụ này bởi họ tin rằng, trên thực tế không chỉ Raath còn sống mà ông và các nhà cổ sinh vật khác có quan điểm rằng Syntarsus (nay là Megapnosaurus) thực sự nên được coi là một từ đồng nghĩa với Coelophysis do sự giống nhau khá đáng kể giữa hai loài khủng long này.

Mặc dù tương lai phần còn lại của loài khủng long này có tiết lộ một số đặc điểm,hành vi cho phép chúng ta có một cái nhìn sâu sắc hơn về hành vi của chúng cũng như hệ sinh thái trong kỷ Jura sớm.
Ngoài tất cả những điều trên, Megapnosaurus còn được biết đến từ Bắc Mỹ và châu Phi, không chỉ giúp chỉ ra rằng các lục địa này vẫn chưa có sự phân tách nhau vào đầu kỷ Jurassic. Tìm hiểu về loài khủng long thú vị này cùng Thegioidongvat.Co các bạn nhé

Thông tin mô tả

Megapnosaurus thuộc cùng một chi với Coelophysis và hai loài gần như giống hệt nhau. Chỉ khác là Megapnosaurus có kích thước nhỏ hơn và chỉ nặng khoảng 34 kg. Megapnosaurus khá gầy, chúng có xương nhẹ và rỗng; chúng có một đôi chân dài, đuôi dài và cái đầu nhỏ, nhọn trên một cái cổ dài, với hàng chục chiếc răng nhỏ.

Tập tính

Kích thước và cấu trúc của đôi mắt của nó chỉ ra rằng Megapnosaurus thường đi săn vào ban đêm

Tuổi thọ

Một nghiên cứu về vòng tăng trưởng trong xương của nó cho thấy rằng loài khủng long này có tuổi thọ trung bình khoảng 7 năm.

Tăng trưởng

Một nghiên cứu gần đây cho thấy Megapnosaurus có sự tăng trưởng khác nhau giữa các cá thể, với một số cá thể có kích thước lớn hơn trong giai đoạn chưa trưởng thành, và một số cá thể có kích thước nhỏ hơn khi đã trưởng thành hoàn toàn. Điều này cho thấy có sự xuất hiện của các biến dị riêng biệt đơn giản là kết quả của biến dị tổ hợp hoặc biến dị đột biến. Sự xuất hiện với mật độ cao này có thể được cho là tổ tiên của loài khủng long nhưng sau đó đã biến mất và những biến dị đó đã tạo cho những con khủng long đầu tiên một lợi thế tiến hóa để tồn tại trong điều kiện môi trường khắc nghiệt.

Phân loại

Giả sử rằng Megapnosaurus xứng đáng có một chi riêng thì sẽ có hai biến thể khác nhau của cùng một loài. Một loài sống ở Nam Phi và được phát hiện khi các nhà nghiên cứu tìm thấy một nấm mồ ở Zimbabwe gồm 30 bộ xương xếp lộn xộn (dường như chúng bị nhấn chìm bởi một trận lũ quét). Một loài khác ở Bắc Mỹ có các đỉnh tròn nhỏ trên đầu, điều đó cho thấy nó có thể liên quan chặt chẽ đến một Theropod (Khủng long chân thú) nhỏ của thời kỳ cuối của kỳ Jurassic, Dilophosaurus.

Chế độ ăn

Khớp trong hàm yếu đã dẫn đến giả thuyết ban đầu rằng loài khủng long này thường ăn những xác động vật thối, vì răng phía trước và cấu trúc xương của hàm được cho là quá yếu để hạ gục con mồi và gặp khó khăn trong việc giữ chặt con mồi.

Có thể bạn chưa biết ?

  • Theo tiêu chuẩn của thời kỳ đầu kỷ Jura (khoảng 190 triệu năm trước), loài khủng long ăn thịt Megapnosaurus được cho là rất lớn. Vì vậy, tên của nó theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là “thằn lằn chết lớn”.
  • Nếu Megapnosaurus có vẻ hơi xa lạ thì đó là vì loài khủng long này thường được gọi là Syntarsus – một cái tên đã được gán cho một loài côn trùng trước đó.
  • Bộ xương của Megapnosaurus được khai quật bởi hàng ngàn người ở phía tây nam nước Mỹ.

Leave a comment