Voi ma mút lông xoăn (Mammuthus primigenius) là một loài voi ma mút sống trong thế Pleistocen (thế Cánh Tân) cho đến khi tuyệt chủng vào thế Holocen. Nó là một trong những loài cuối cùng trong dòng các loài voi ma mút, bắt đầu với Mammuthus subplanifrons (Voi ma mút Nam Phi) vào đầu Pliocen. Loài voi ma mút lông xoăn bắt đầu tách ra khỏi thảo nguyên khoảng 800.000 năm trước ở Đông Á.

Những chiếc Ngà khổng lồ

Những con voi ma mút lông xoăn có những chiếc ngà rất dài, cong hơn những chiếc ngà của voi hiện đại. Con đực lớn nhất được biết đến có ngà dài 4,2 m và nặng 91 kg, nhưng 2,4–2,7 m và 45 kg là kích thước điển hình hơn, thường được tìm thấy. Ngà của những con cái nhỏ hơn và mỏng hơn, 1,5–1,8 m và nặng 9 kg.

Những con voi ma mút lông xoăn trưởng thành có thể tự vệ rất tốt khỏi những kẻ săn mồi bằng ngà và kích thước của chúng, nhưng những con non và con trưởng thành yếu ớt rất dễ bị những kẻ săn mồi như sói, linh cẩu và giống loài mèo lớn tấn công (Hổ…).
Những chiếc ngà cũng có thể được sử dụng trong cuộc chiến giữa các các thể cùng loài, chẳng hạn như tranh giành lãnh thổ hoặc bạn tình. Việc show ra những chiếc ngà lớn của con đực cũng có thể được sử dụng để thu hút con cái và đe dọa đối thủ. Do độ cong của chúng, những chiếc ngà không thích hợp để đâm, nhưng có thể đã được sử dụng để đánh, quật đối thủ.

Sống cùng thời với con người

Con người hiện đại cùng tồn tại với voi ma mút lông xoăn trong thời kỳ đồ đá cũ khi loài người từ châu Phi đến châu Âu từ 30.000 đến 40.000 năm trước. Trước đó, người Neanderthal đã cùng tồn tại với voi ma mút trong thời kỳ đồ đá cũ giữa thời Trung Cổ, và đã sử dụng xương voi ma mút để chế tạo công cụ và vật liệu xây dựng. Những con voi ma mút lông xoăn rất quan trọng đối với con người thời kỳ băng hà và sự tồn tại của con người đã có thể phụ thuộc vào loài voi ma mút ở một số khu vực.

Leave a comment