Dimetrodon là loài động vật
sống cách đây 295-265 triệu năm, thuộc kỷ Permi, chúng là
động vật bò sát ăn thịt, nhưng
thường xuyên bị nhầm với các loài khủng long bởi Kỷ Permi là thời kỳ phồn thịnh của
các loài côn trùng, động vật chân đốt (
chưa xuất hiện khủng long). Cùng
Thegioidongvat.Co khám phá những thông tin về Dimetrodon ngay dưới đây
Mặc dù bề ngoài trông giống khủng long nhưng Dimetrodon là
loài bò sát thời tiền sử
xuất hiện trước khủng long 50 triệu năm, thực chất loài động vật này được biết đến
như tổ tiên của loài Thằn lằn hiện đại, có độ
dài khoảng 3 mét sống trong Đại Cổ Sinh
Với những chiếc vây phía trên lưng trông giống cánh buồm, Dimetrodon được đặt tên theo tên của nhà cổ sinh vật học Edward Drinker Cope nổi tiếng của Mỹ. Lý do là mồm của chúng gồm các răng nanh sắc ở phía trước, lý tưởng cho việc đào bới, giết chết con mồi và răng hàm phía trong để nghiền vụn xương của nạn nhân.
Tìm hiểu thêm: 25 chuyện hoang đường về khủng long mà bạn cần phải ngừng tin tưởng
Ở Đại Cổ Sinh, biên độ nhiệt một ngày dao động rất lớn, vì vậy những loài bò sát chậm chạp như Dimetrodon sẽ phát triển những chiếc vây giống vây cá trên lưng, nhiệm vụ của nó như một thiết bị điều chỉnh nhiệt độ, tăng
khả năng hấp thụ ánh sáng mặt trời vào ban ngày, xua tan cái lạnh vào ban đêm. Ngoài ra chúng còn để phân biệt giữa con cái và con đực.
Mặc dù có quan hệ họ hàng nhưng loài Edaphosaurus nặng 90Kg là một phiên bản thu nhỏ của Dimetrodon, tuy nhiên người tiền bối Edaphosaurus lại ăn thực vật, trong khi Dimetrodon "
sinh sau đẻ muộn" đã sở hữu khả năng ăn thịt siêu phàm
[caption id="attachment_11492" align="img-fluid d-block mb-3 mx-auto" width="300"]
Edaphosaurus[/caption]
Khám phá: Sự thật về chú Khủng Long Đầu Tiên trên thế giới
Để phân biệt Dimetrodon với các loài khủng long, chúng ta sẽ tìm hiểu cách đi lại của chúng. Các loài Thằn lằn, bò sát thường di chuyển và lắc lư đuôi của chúng, đại diện cho nhóm này là rắn,
cá sấu,
rồng Komodo... nhưng khủng long lại có thể di chuyển trên bốn chân một cách thẳng đứng.
Trên thực tế, khi khai quật các hóa thạch của Dimetrodon, các nhà cổ sinh vật học đã cho thấy những khác biệt quan trọng giới tính: Con đực trưởng thành lớn hơn so với con cái,
dài khoảng 4,5 mét,
nặng hơn 200kg, xương cứng hơn và phần vây cũng nhô lên cao hơn. Lý giải chuyện này, các nhà khoa học cho rằng đó một phần là do chọn lọc giới tính, con đực cần ngoại hình to lớn để hấp dẫn con cái trong mùa giao phối.
Vào thời điểm Đại Cổ Sinh mà Dimetrodon sinh sống, loài bò sát và thằn lằn vẫn chưa phát triển mạnh và thống trị Trái đất. Ở phía tây nam Mỹ ở thời kỳ này, Dimetrodon vẫn đang sống cùng với các loài như Eryops và các loài Diploculus nhỏ (
là loài động vật có đầu giống một chiếc Boomerang). Trong Đại Trung Sinh thì các loài lưỡng cư, bò sát khác lại là phần yếu của chuỗi thức ăn khi Khủng long xuất hiện.
Có ít nhất
15 loài Dimetrodon được biết đến, phần lớn trong số chúng đã được phát hiện ở Bắc Mỹ, cụ thể là ở Texas. Một phần ba trong số những loài này được phát hiện bởi Edward Drinker Cope, một nhà Khủng long học nổi tiếng, vì vậy trong giới mộ Động vật thời tiền sử, Dimentrodon thường bị nhầm lẫn với khủng long