Tên thường gọi: Coelophysis
Chế độ ăn: Động vật ăn thịt
Loài: Khủng long
Môi trường sống: Châu Phi và Bắc Mỹ
Thời kỳ lịch sử:Kỷ Trias (khoảng 216 đến 196 triệu năm trước)
Kích thước: Chiều cao khoảng 3 feet (khoảng 0,9 m) ; Chiều dài khoảng 9 feet (khoảng 2,7 m)
Cân nặng: Cân nặng dao động từ 30 đến 44 pounds (khoảng từ 13 đến 20 kg)
Hóa thạch được tìm thấy ở: Texas, Vân Nam (Trung Quốc) và phía bắc Matabeleland (Zimbabwe)
Bao nhiêu bạn thực sự biết về Coelophysis ?
Là một đại diện tiêu biểu cho loài khủng long ăn thịt trong hồ sơ hóa thạch, Coelophysis chiếm một vị trí quan trọng trong lịch sử cổ sinh vật học. Sau đây, chúng ta sẽ khám phá những thông tin hấp dẫn liên quan đến Coelophysis.
Coelophysis sống trong thời kỳ Trias muộn
Vào giai đoạn cuối kỷ Triassic (
khoảng 215 đến 200 triệu năm trước), xuất hiện một loài khủng long có kích thước nhỏ với chiều dài khoảng 1,8 m và trọng lượng khoảng 22,7 kg đang đi rình mò kiếm mồi ở phía tây nam Bắc Mỹ. Loài khủng long này xuất hiện trước khi bước vào thời kỳ hoàng kim của loài khủng long, kỷ Jura. Vào thời điểm đó, khủng long đã vượt mặt
loài bò sát đang chiếm ưu thế để trở thành loài thống trị trên đất liền. Trên thực tế, chúng chỉ đứng thứ ba sau cá sấu và archosaurs (
loài thằn lằn mà từ đó tiến hóa thành những con khủng long đầu tiên) về mức độ nguy hiểm.
Coelophysis là hậu duệ của loài khủng long đầu tiên
Ngay khi Coelophysis xuất hiện, nó không hoàn toàn giống với cấu trúc cơ bản của khủng long như những con khủng long đã xuất hiện trước 20 đến 30 triệu năm, và được cho là hậu duệ của loài khủng long đầu tiên. Những loài xuất hiện ở giai đoạn giữa của kỷ Triassic (
khoảng 230 triệu năm trước) bao gồm các chi quan trọng như Eoraptor, Herreresaurus và Staurikosaurus được các nhà cổ sinh vật học khẳng định đây là những con khủng long thực sự đầu tiên, chỉ mới phát triển vào thời gian gần đây từ những người tiền nhiệm của họ, Archosaur.
Tên của Coelophysis có nghĩa là “hình thái rỗng”
Cứ cho là Coelophysis không phải là một cái tên dễ nhớ nhưng các nhà tự nhiên học ở thế kỷ 19 đã rất nghiêm túc trong việc đặt tên cho loài động vật này dựa trên hình thái của nó. Cái tên Coelophysis được đặt bởi nhà cổ sinh vật học nổi tiếng người Mỹ Edward Drinker Cope, người đã đề cập đến đặc điểm “
xương rỗng” của loài khủng long đầu tiên này. Khi sinh sống trong hệ sinh thái Bắc Mỹ, nhờ có đặc điểm này mà nó có thể trở nên nhẹ hơn, di chuyển nhanh hơn trên đôi chân của mình để tránh kẻ thù.
Coelophysis là một trong những con khủng long đầu tiên có xương đòn
Không chỉ có cấu trúc xương rỗng giống như xương của các loài chim hiện đại, con khủng long đầu tiên này cũng sở hữu một mấu xương nhỏ hay còn gọi là xương đòn. Tuy nhiên, những con khủng long Trias muộn như Coelophysis chỉ được coi là tổ tiên xa của loài chim hiện nay. Phải mãi cho đến 50 triệu năm sau, trong thời kỳ cuối của kỷ Jura, xuất hiện những loài Theropod (
Khủng long chân thú) có kích thước nhỏ như Archaeopteryx bắt đầu có xu hướng tiến hóa theo hướng gia cầm, mọc lông, móng vuốt và mỏ nguyên thủy.
Hàng ngàn hóa thạch của Coelophysis được phát hiện tại Ghost Ranch
Trong gần một thế kỷ sau khi được phát hiện, Coelophysis vẫn là loài khủng long tương đối mơ hồ. Tất cả chỉ thay đổi cho đến năm 1947, khi thợ săn hóa thạch đầu tiên Edwin H. Colbert phát hiện ra hàng ngàn xương của Coelophysis – mô tả chi tiết các giai đoạn trưởng thành, từ con non cho đến vị thành niên, đến thanh niên và đến con trưởng thành – xếp chồng chất lên nhau trong mỏ Ma Ranch của New Mexico. Điều đó đã phần nào giải thích Coelophysis được cho là hóa thạch chính thức của bang New Mexico.
Coelophysis đã từng bị gán tội ăn thịt người
Phân tích dạ dày của một số mẫu vật Coelophysis ở Ma Ranch đã tiết lộ phần nào hóa thạch của các loài bò sát có kích thước nhỏ hơn – dẫn đến sự suy đoán rằng Coelophysis ăn con non của mình. Tuy nhiên, hóa ra những hóa thạch nhỏ xíu này không phải là con non của Coelophysis, hay thậm chí là của những con non của những loài khủng long khác mà là những con khủng long có kích thước nhỏ sống ở thời kỳ Trias muộn (
tồn tại song song với những con khủng long đầu tiên trong khoảng 20 triệu năm).
Coelophysis đực có kích thước lớn hơn Coelophysis cái
Bởi vì rất nhiều mẫu hóa thạch của Coelophysis đã được phát hiện nên các nhà cổ sinh vật học đã có thể khẳng định sự tồn tại cả hai hình thái riêng biệt: “gracile” (
có nghĩa là nhỏ và mảnh mai) và “robust” (
có nghĩa là không quá nhỏ và mảnh mai). Rất có khả năng sự phân chia hai loại hình thái riêng biệt này tương đương với hai giới tính khác nhau của loài, mặc dù vậy vẫn chưa thể chắc chắn giới tính chính xác của hai hình thái đó. (
Bởi trong nhiều loài chim phát triển từ khủng long Theropod có con cái lớn hơn con đực).
Coelophysis có thể là loài khủng long tương tự như Megapnosaurus
Vẫn còn rất nhiều những tranh luận xoay quanh việc phân loại đúng các loài Theropods sớm của kỷ nguyên Mesozoi. Một số nhà cổ sinh vật học tin rằng Coelophysis là loài khủng long tương tự như Megapnosaurus (“
con thằn lằn lớn”), loài khủng long được gọi là Syntarsus cho đến vài năm trước đây. Cũng có thể là Coelophysis đã lang thang ở khắp lãnh địa Bắc Mỹ rộng lớn thay vì chỉ giới hạn ở phía tây nam Bắc Mỹ.
Coelophysis có đôi mắt lớn bất thường
Như một quy luật chung, động vật ăn thịt dựa nhiều hơn vào thị giác và khứu giác của chúng thay vì phụ thuộc vào những con mồi tương đối chậm chạp. Giống như nhiều loài khủng long nhỏ của kỷ nguyên Mesozoi, Coelophysis có thị giác tương đối phát triển, và có lẽ đã giúp nó trở về nhà với những bữa ăn thịnh soạn – và thậm chí có một ý tưởng được đưa ra là con khủng long này thường đi săn vào ban đêm. (
Đôi mắt to hơn có nghĩa là bộ não sẽ lớn hơn, điều này cần thiết để xử lý, phối hợp giữa thông tin và hình ảnh bổ sung)
Coelophysis có thể thường tụ họp thành những nhóm lớn
Bất cứ khi nào các nhà cổ sinh vật học phát hiện ra “
nghĩa địa” rộng lớn thuộc về một chi khủng long duy nhất (
Plateosaurus), họ có thể sẽ suy đoán rằng con khủng long này đã đi lang thang trong các nhóm lớn. Ngày nay, rất nhiều người tán đồng với quan điểm là Coelophysis là một động vật sống thành bầy đàn, nhưng cũng có thể là những cá thể này bị cô lập và chết đuối cùng nhau trong một trận lũ quét hoặc sau nhiều trận lũ quét như vậy trong nhiều năm hoặc nhiều thập kỷ và bị cuốn trôi vào cùng một vị trí.